...Chiều chiều quán nước của bà Lũy vẫn đông khách lắm. Thì vẫn những câu chuyện cũ thôi, lo toan cũng cũ. Có khi họ đến chẳng phải để nghe ngóng chuyện gì, than thở điều chi. Họ đến chỉ để ngồi bên nhau nhìn ra cánh đồng phía xa xa, thấy làng xóm quê nhà dẫu trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn bình yên đến vậy…
Khu đất tái định cư nằm ngay giáp đồi cây bạch đàn giờ là chỗ tụ tập của đám thanh niên choai choai. Mà thật ra cũng chẳng riêng gì lũ choai choai, cả mấy ông vợ con đuề huề rồi mà chiều nào mát trời cũng lê la hóng gió. Bà Lũy mới nghỉ hưu, chẳng có việc gì làm, đầu nảy số rất nhanh, mở ngay quán trà đá cạnh khu tái định cư. Vốn liếng chẳng là bao, đổ cái đế bê tông, cắm cái ô vào đó. Thùng đá nhà sẵn, thêm vài bộ cốc, chục cái ghế nhựa, mắc thêm vài ba cái võng dưới gốc bạch đàn, kẽo cà kẽo kẹt cứ tầm năm rưỡi chiều trời dịu nắng, khách kéo đến khá đông. Thật ra người vô công rồi nghề thì ít mà đa phần khách ra đó đều có mục đích cả. Họ nghe ngóng xem tình hình cắt đất phân lô thế nào? Sắp đấu giá đất ở đâu? Chuyện sáp nhập ai ở ai đi rôm rả mãi rồi cũng nguội dần. Ai về nhà đấy, việc ai nấy làm, cuộc sống trăm thứ phải lo. Những lúc vắng khách bà Lũy hay hướng ánh nhìn ra phía xa xa. Nơi ấy là con đường nhỏ vắt qua cánh đồng, dẫn ra bãi tha ma của làng. Mùa này con đường nở đầy hoa xuyến chi, dưới đất vàng mã còn vương đầy. Thỉnh thoảng vài tờ tiền âm phủ gió thổi bay xuống đậu la đà trên ngọn lúa. Ông Vĩnh vứt cuốc xẻng xuống đất gọi một cốc trà đá, tu ực một cái đã cạn. Bà Lũy đưa cho ông chiếc khăn ướt, bảo:
- Lau đi, mồ hôi đầm đìa kinh quá! Nhà nào có người mất thế? Sao không để sáng mai đào sớm. Nắng nôi thế này.
- Ông Thịnh chứ ai. Con cái đều đi xuất khẩu lao động ở xa, chẳng biết có bay về kịp hay không. Tôi cứ mang sẵn đồ đạc ra đó, xem chỗ đất gia đình chọn có dễ đào không còn liệu đường gọi thêm người.
- Khổ thật. Con cái không về kịp thì tang lễ biết lo liệu thế nào?
- Thì anh em, họ hàng, làng xóm đứng ra lo. Chỉ khổ là mong con mong cháu bao ngày, chờ đợi mãi cuối cùng ông ấy vẫn ra đi mà trong lòng đau đáu.
- Đúng là mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Như ông Thịnh cả đời chẳng lo tiền bạc nhưng lại thiếu thốn những bữa cơm sum họp gia đình. Còn bao người giữa thời buổi khó khăn này còn loay hoay kiếm ăn từng bữa. Mà ông liệu còn sức để đào được bao nhiêu cái huyệt nữa?
- Cứ còn sức thì đào thôi. Tiễn đưa được bao nhiêu người thì tiễn.

Minh họa sưu tầm
Ông Vĩnh nheo mắt nhìn xuyên qua cái nắng lấp lóa trên đồng. Đời ông đơn độc, bố mẹ mất sớm, cũng chẳng có vợ con. Tất cả những gì thân thuộc nhất của ông đều gắn bó với làng. Hồi còn nhỏ xíu, ông hay lang thang ở bến sông. Trên là chợ, dưới là bến đò. Ai thuê gì thì làm, công cán được trả bằng nắm xôi, chiếc bánh rán bọc đường, vài khúc mía. Ngay cả những ngày chẳng có ai thuê gì thì bụng thằng bé tám tuổi cũng chưa bao giờ bị đói. Ông mồ côi nhưng lớn lên nhờ biết bao người bà, người mẹ chở che. Những người đàn ông trong làng thay người bố đã mất dạy ông cách cầm cuốc cầm cày, cách cầm dao xây, cách đào hố trồng xuống một cái cây, cách sống sao cho trượng nghĩa.
Lớn lên ông làm đủ thứ nghề. Từ đào giếng thuê, đào ao, xây nhà, bốc vác… Ai thuê gì làm nấy, công cán trả bao nhiêu thì trả nhưng với riêng ông nhà chủ lúc nào cũng nuôi cơm. Bởi biết ông sống một mình, đi làm về đâu có bếp lửa chờ. Lủi thủi nhóm bếp, bắc nồi, một người một bát, chắc là buồn lắm. Nên bao nhiêu năm ông hòa vào cái không khí sum vầy ở nhà người.
Làng có việc gì ông Vĩnh cũng xắn tay làm. Hiếu, hỉ ở làng trên xóm dưới đều có mặt ông. Cả những việc chẳng ai muốn mó vào thì ông vẫn gật đầu khi người ta nhờ vả. Nhìn theo bóng dáng ông Vĩnh đi trong cái nắng lấp lóa trên đồng, bà Lũy chép miệng bảo với khách:
- Trông thế thôi chứ ông ấy khỏe lắm. Có lẽ cả đời sống lương thiện, hiền lành, làm nhiều việc phúc đức nên được trời thương. Bao lâu nay chẳng ốm đau gì.
- Nhưng không có vợ con, sau này càng về già càng khổ.
- Số phận đã vậy rồi biết làm sao. Nhưng kể cả khi ông ấy ốm đau thì tôi tin người làng chẳng bao giờ bỏ rơi ông ấy.
- Mà chị có nghe tin tức gì về việc đấu giá đất Đồng Mười không?
- Đang sáp nhập, các dự án còn nhiều vướng mắc lắm. Có đấu giá chắc cũng phải cuối năm. Tiền nhàn rỗi hay là đầu tư vàng.
- Chịu thôi. Giá vàng đang cao quá, nhảy vào chẳng biết có ăn hay đu đỉnh.
- Các ngân hàng đang hạ lãi suất. Giá cả leo thang, đồng tiền mất giá. Mấy bác xin về hưu sớm, cầm vài trăm triệu tiền trợ cấp trong tay giờ chẳng biết làm sao để tiền đẻ ra tiền. Buôn bán kinh doanh thì khó khăn, thấy đang rủ nhau đầu tư cả vào sàn chứng khoán.
- Em cũng đang tập tành món ấy. Nhưng chứng khoán dạo này tăng thốc, cứ sợ sợ là…

Minh họa sưu tầm
Rồi thì việc sáp nhập cũng đâu vào đó. Người ở lại tiếp tục công việc, người rời đi còn bận loay hoay tìm công việc mới. Quán nước của bà Lũy vẫn đông vào lúc chiều muộn khi công chức hết giờ làm việc, công nhân đã tan ca. Họ đến ngồi với nhau trút bỏ những mệt mỏi trước khi trở về nhà. Nhấp một ngụm trà, ngẫm chuyện người mà nghĩ đến chuyện nhà. Mỗi câu chuyện được kể ra, ai cũng thấy cuộc đời mình có dự phần trong đó. Có những khi bon chen mệt mỏi họ soi mình vào trong cuộc đời người khác. Nhìn cái cuốc cùn, cái xẻng cũ của ông Vĩnh mà ngẫm ra biết bao chuyện ở đời. Chiếc cuốc cùn ấy thỉnh thoảng sẽ mang ra để đất đá ngoài nghĩa trang mài cho sáng lại. Đời người bắt đầu từ đồng ruộng, cái cày cái cuốc. Phấn đấu cả đời để không còn phải theo sau con trâu, không phải cuốc cày. Nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn nhờ những dụng cụ thô sơ đó, đào cho mình một chỗ nằm yên nghỉ vài ba mét đất. Có ai đó buông một tiếng thở dài. Ai đó trước khi ra về khi trả tiền nước trà không quên đưa thừa, dặn chủ quán: "Đây là tiền trả trước cho ông Vĩnh". Bà Lũy dúi lại tiền cho khách, phẩy tay bảo: "Thôi khỏi! Tôi có bao giờ lấy tiền của ông ấy đâu mà".
Cái tin ông Vĩnh ốm chưa đầy vài tiếng đồng hồ đã lan khắp làng. Đàn bà đang lúi húi làm cỏ lúa, gọi điện về giục con nấu cơm sớm tối còn đi thăm người bệnh. Đàn ông giục vợ gói mấy chục trứng, bắt lấy con gà, "hoặc đưa đây vài trăm ngàn góp vào cho ông ấy thuốc thang". "Rõ khổ". Chẳng cần phải họp bàn, phân công. Ai giúp được gì cứ giúp. Căn nhà nhỏ của ông Vinh cứ người này đi thì người khác lại đến. Người bưng cho bát cháo sáng, người đến nấu bữa trưa. Mới bốn, năm giờ chiều đã có người giục ông ăn tối sớm còn uống thuốc, nghỉ ngơi. Họ bàn nhau "ông Vĩnh ốm lâu thế này là phải đưa đi khám. Bao nhiêu năm làm lụng vất vả. Có khi bệnh ủ trrong người đã lâu rồi". Ấy thế nhưng ông Vĩnh nhất quyết không đi. "Sống chết có số. Trời gọi đến ai người ấy dạ". Người làng bảo nhau "mấy hôm trước làng không có đám ma, mà tôi thấy ông Vĩnh vác cuốc xẻng ra nghĩa trang chẳng biết làm gì". "Có người đi qua bảo thấy ông ấy hí húi đào. Hỏi đào huyệt cho ai thì ông ấy cười bảo đào sẵn cho mình. Tưởng nói chơi thôi, ấy thế mà có khi thành thật". "Khổ! Ông ấy có nằm xuống cũng sẽ có người làng lo liệu chu toàn. Người đâu mà… đến tận lúc cuối đời vẫn không muốn phiền hà người khác".
Ấy thế mà khoảng nửa tháng sau ông Vĩnh bỗng nhiên khỏe lại. Người ta thấy ông lại cầm cuốc ra vườn xới đám cỏ mọc lan cả ra lối đi. Lúc sau đã thấy ông đang lúi húi làm giàn cho đám đỗ dải áo leo, cắt tỉa cành na, làm mấy luống đất trồng rau cho kịp vụ. Ai đi qua hỏi ông ăn mấy mà trồng gì lắm rau thế? Thể nào ông cũng cười bảo "thì trồng cho bà con làng xóm ai lỡ bữa thì qua hái. Chứ đất đai bỏ không uổng lắm". Người làng bảo nhau ông Vĩnh được trời thương nên ốm nằm liệt giường tưởng chết giờ lại khỏe như vâm. Trong những cuộc điện thoại mà con cháu ở xa gọi về, bao giờ câu chuyện cũng được bắt đầu bằng cái giọng vui mừng, phấn khởi: "Con ơi, ông Vĩnh khỏe lại rồi". Chiều chiều quán nước của bà Lũy vẫn đông khách lắm. Thì vẫn những câu chuyện cũ thôi, lo toan cũng cũ. Có khi họ đến chẳng phải để nghe ngóng chuyện gì, than thở điều chi. Họ đến chỉ để ngồi bên nhau nhìn ra cánh đồng phía xa xa, thấy làng xóm quê nhà dẫu trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn bình yên đến vậy…