23 tuổi, trong phần Sơ yếu lý lịch về bố, tôi viết: "Nhập ngũ năm 1968. Tham gia chiến dịch Tây Nguyên vào mùa Xuân năm 1975 và bị thương. Xuất ngũ năm 1979". Mỗi khi tôi hỏi bố rằng chiến tranh như thế nào, bố chỉ gói gọn trong 2 từ: "Khốc liệt".
Hà Nội đã bước vào Thu. Dấu hiệu rõ nhất là những cơn mưa cuối Hè làm hạ nền nhiệt độ miền Bắc xuống đáng kể. Ánh nắng gay gắt được pha nhạt đi, trở nên vàng óng dịu dàng. Thật dễ chịu.
Nắng đẹp, chú mèo tranh thủ ngả ngớn phơi bộ lông đen tuyền trong nắng dịu. Mẹ lặng lẽ đặt chiếc ghế ngoài hiên nhà để bố ngồi hít thở không khí sau chuỗi ngày oi ả mệt mỏi.
Bố nhắc mẹ: "Sắp đến ngày giỗ ông Hùng rồi, bà đi chợ nấu bữa cơm thắp hương đấy. Bà ghi vào giấy đi kẻo quên". Bố tôi nóng tính, thường càu nhàu nhắc đi nhắc lại một việc với mẹ. Mẹ chỉ cười xoà, trêu đùa cho bố đỡ bực. Bao năm qua, tôi và mẹ đã quá quen với điều ấy vì thương bố tôi không nhìn thấy gì.
Ông Hùng là chú trẻ của bố. Gọi là chú vì là em của ông nội, nhưng lại chỉ hơn bố tôi có 1 tuổi. Bức ảnh ông đặt trên bàn thờ là một thanh niên trẻ, đẹp trai, mũi cao dọc dừa và đôi mắt sâu thăm thẳm. Tôi hỏi bố: "Chắc ông mất lúc còn đôi mươi bố nhỉ. Ông Hùng đẹp trai thật đấy. Tiếc ghê".
"Ừ. Ngày ấy mọi người đi bộ đội ai chẳng trẻ măng. Bố nhớ ngày 2/9 năm 1959, bố và ông Hùng chỉ cần găm cái bánh mì rồi ngồi cả ngày chờ xem diễu hành. Năm ấy, bố còn được thấy Bác. Sau này khi nhập ngũ, bố có một lần được vào phủ Chủ tịch gặp Bác lần nữa trước khi Bác mất".
Bố kể, lễ Quốc khánh năm 1959 được tổ chức to lắm. 2 chú cháu khi ấy mới chỉ là những đứa trẻ 9-10 tuổi, được xem diễu hành hoành tráng thật thích mắt.
Lần đầu tiên tôi được nghe bố nhắc về kỷ niệm giữa bố và ông Hùng vào ngày Quốc khánh. Khuôn mặt bố trở nên rạng ngời khi nhớ về người bạn thân thời thơ ấu.
"Ông Hùng nhập ngũ năm 1965. Tết Mậu Thân 1968, ông được nghỉ mấy ngày phép về thăm gia đình. Năm ấy chiến trường miền Nam ác liệt lắm. Ông Hùng rủ bố lên Bờ Hồ chụp bức ảnh kỷ niệm của 2 chú cháu. Ông dặn bố giữ ảnh cho ông, khi nào ông về thì bố đưa sau. Hôm đấy là hôm cuối cùng bố gặp ông. Cuối tháng 8 cùng năm thì ông hi sinh trong trận Quảng Nam. Tháng 9 bố nhập ngũ. Năm 1975, bố bị thương trong chiến dịch mùa Xuân ở Buôn Mê Thuột. Được trở về là may lắm rồi".
Bố im lặng. Tôi cũng lặng yên nhớ về những gì tôi biết về ông suốt những năm tháng tuổi thơ. Đầu những năm 2000, bố tôi thường xuyên vắng nhà. Tôi chỉ được biết bố đi tìm mộ ông Hùng. Một người thương binh hỏng mắt, mất hơn 90% sức lao động, nhưng vô cùng gan lì. Đúng, bố tôi rất lì, vì những thông tin về nơi ông Hùng hi sinh trong Quảng Nam, hay địa điểm ông mất vô cùng hiếm hoi và mơ hồ. Hễ nghe ngóng trên báo đài về nhà ngoại cảm nào, bố tôi đều tìm đến để có thêm manh mối.
Tôi không biết bố tôi đã đi qua bao nhiêu mùa nắng ở miền Trung. Những lần đặt chân về nhà, xôn xao bàn bạc ở phòng khách vào tờ mờ sáng. Rồi những đêm vội vã ra khỏi nhà bắt tàu xe, tôi chỉ thấy bóng lưng của bố lơ mơ trong cơn buồn ngủ. Năm 2004, bố tôi thông báo đã tìm được ông. Lễ đón ông Hùng về nhà năm ấy khá to và xúc động. Bố tôi đã hoàn thành tâm nguyện của một người cháu, một người bạn.
Có lẽ, sau khi đưa được ông Hùng về, bố tôi đã được ông và các liệt sĩ phù hộ. Tiếng hét của bố tôi trong những đêm gặp ác mộng ngớt dần. Tôi tò mò hỏi bố: "Bố ơi, bố mơ gì mà hét lớn thế. Con sợ quá". Bố đáp: "Bố lại nhớ về những lần kẻ địch truy đuổi bố. Nếu mình không bắn họ, thì họ sẽ bắn mình".
Tranh của hoạ sĩ Nguyễn Hải Nghiêm.
Bố tôi và ông Hùng - những con người sinh ra và lớn lên khi đất nước còn chiến tranh. Bố và ông đều từng là những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi khát vọng thống nhất đất nước, không tiếc thanh xuân, thân mình và hạnh phúc để giành lấy tự do cho đồng bào, cho gia đình của mình.
Còn tôi, đứa trẻ lớn lên trong thời bình, là con của một cựu chiến binh. Tôi chứng kiến cuộc sống của một người lính thân thể không còn lành lặn, đã vật lộn vượt qua bóng ma chiến tranh khói lửa, chứng kiến các đồng đội hi sinh ngay trước mắt mình, để tiếp tục tồn tại và tìm kiếm sự bình yên bên gia đình.
Tôi từng trách bố rất nhiều khi tại sao tôi phải viết thành thạo trong sơ yếu lý lịch: "Con thương binh hỏng mắt, mất 91% sức lao động". Tôi không muốn được đối xử khác biệt. Tôi chỉ muốn như bao đứa trẻ khác đồng trang lứa: được bố đưa đi chơi, được bố tới dự những cuộc thi mình tham gia, được bố khen con gái bố thật xinh. Nhưng bố không thể.
Khi bố cáu gắt, bố thường phạt chúng tôi bằng những trận đòn roi. Tôi không dám chạy. Bố đánh chúng tôi trong cơn tức giận, đôi khi để lại nhiều vết sẹo sâu mà bố không thể biết. Tôi không né, bởi tôi sợ bố sẽ cảm thấy sự bất lực khi không thể nhìn thấy. Tôi lớn lên với sự trách móc, giận bố trong suốt năm tháng trưởng thành.
Năm 2015, tôi gặp biến cố về sức khỏe. Trước ca mổ, bố bảo: "Dù thân thể mình không được trọn vẹn, nhưng mình sẽ không để hỏng những phần còn lại con ạ".
Tôi và bố đã làm hoà với nhau. Tôi hiểu về sự mất mát của bố, và không còn sợ danh xưng "con ông thương binh" nữa. Tôi và bố tìm thấy sự tự do cho riêng mình.
Trong khi cả nước đang rộn ràng mừng lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, chúng tôi kỷ niệm theo truyền thống gia đình nhiều năm qua: Hạn chế ra ngoài đường vì đông đúc, một nén nhang trên bàn thờ ông trẻ, một bữa cơm quây quần bên nhau. Vậy là hạnh phúc trọn vẹn rồi.
Tranh thủ về thăm nhà những ngày Thu đẹp chóng vánh, tôi lại thấy bố mẹ ngồi phơi nắng ngoài hiên trước cửa phòng bếp, uống chén trà xanh pha loãng và nghe bản tin thời sự. Ở tuổi ngoài 70, bố tôi không còn nuối tiếc về những điều chưa kịp thực hiện khi còn trẻ. Bố, ông Hùng và nhiều thế hệ người Việt ngã xuống trong chiến tranh, đã đóng góp vào một sự nghiệp cao cả mà các thế hệ sau sẽ còn nhắc mãi: sự nghiệp giải phóng và giành lại độc lập - tự do cho đất nước.
Không cần nhìn thấy như bao người, nhưng bố tôi biết, hoà bình đẹp lắm.