Giáo dục là quốc sách hàng đầu và kỳ tích diệt “giặc dốt”

Hạ Thi
Chia sẻ

Mùa thu năm 1945, Bộ Giáo dục Quốc gia của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Trong suốt 80 năm phát triển của đất nước, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Chính phủ coi là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.

Chiến dịch “diệt dốt”: Bước đột phá để nâng cao dân trí

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: “Thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ. Chính phủ coi xóa nạn mù chữ, chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách, phục vụ kháng chiến, kiến quốc.

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Trong đó, nhiệm vụ chống nạn mù chữ được xếp thứ hai sau nhiệm vụ chống giặc đói. Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Việc học chữ Quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Đầu tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi chống nạn thất học”. Hưởng ứng phong trào Bình dân học vụ, các lớp học được tổ chức khắp nơi, ở các đình làng, nhà thờ họ, nhiều chỗ tận dụng thêm lều quán, bến nước, gốc cây, mượn thêm nhà ở hay con đò để dạy học. Bảng để dạy học là vách nhà, sân phơi, cửa ra vào. Không có phấn viết bảng thì lấy đá trắng hay than củi để thay thế. Thiếu giấy bút thì dùng que viết chữ lên mặt đất.

Một trong những giải pháp để bắt buộc mọi người tham gia học tập là các địa phương đều dùng biện pháp mạnh. Đó những ai không chịu đi học đều bị chế giễu, khắp đường của các thôn hay cổng vào chợ đều có trạm kiểm tra bằng cách dựng cổng chào với hình thức đẹp, trên có bảng chữ đề sẵn, đến nơi ai đọc được thì đi qua cổng chính, ai không đọc được thì phải quay về hoặc luồn qua một nách tre thấp, hẹp bên cổng lớn.

Cứ thế, phong trào Bình dân học vụ đã trở thành một phần của phong trào Thi đua kháng chiến kiến quốc, góp phần quan trọng vào công cuộc diệt giặc dốt. Chỉ trong khoảng thời gian hơn một năm tuyên bố độc lập, phong trào Bình dân học vụ cả nước đã giúp hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Đến năm 1952, chiến dịch xóa nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành.

Giáo dục là quốc sách hàng đầu và kỳ tích diệt “giặc dốt” - 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một lớp học của phong trào Bình dân học vụ. ảnh tư liệu. 

Bước cải cách giáo dục toàn diện đầu tiên

 Từ Toàn quốc kháng chiến (1946), giáo dục chuyển hướng thành “giáo dục kháng chiến”: Vừa phục vụ chiến đấu, vừa chuẩn bị cho kiến quốc. Cuộc Cải cách giáo dục 1950 đã thúc đẩy phong trào học tập toàn dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi Điện Biên Phủ 1954.

Song song đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: Dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), Khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và Đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân). Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến". Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

Trong giai đoạn kháng chiến 1945-1954, Giáo dục Việt Nam đã thể hiện một sức sống mãnh liệt và có những bước chuyển mình sâu sắc, tập trung vào 3 mặt trận chính trong vùng tự do:

Phong trào Bình dân học vụ và Bổ túc văn hóa: Đây là thành tựu rực rỡ nhất, một cuộc vận động chính trị-xã hội sâu rộng nhằm “diệt giặc dốt”. Với tinh thần sáng tạo, lớp học được mở ở mọi nơi, sử dụng các vật liệu tự tạo. Phong trào không chỉ xóa mù chữ cho hàng triệu người mà còn là nơi tuyên truyền đường lối kháng chiến. Tiếp nối thành công đó, hệ thống Bổ túc văn hóa được hình thành để nâng cao trình độ cho những người đã biết chữ.

Giáo dục phổ thông: Dù phải sơ tán trường lớp từ thành thị về nông thôn và căn cứ địa, hệ thống giáo dục phổ thông không những được duy trì mà còn phát triển về quy mô. Số lượng trường lớp, giáo viên và học sinh ở cả ba cấp học đều tăng lên đáng kể. Đặc biệt, Chính phủ đã thành lập các trường nội trú cho con em dân tộc thiểu số và học sinh miền Nam, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc đào tạo cán bộ.

Giáo dục đại học và chuyên nghiệp: Ngay sau năm 1945, các trường đại học được khôi phục và chuyển sang giảng dạy bằng tiếng Việt. Trong kháng chiến, các trường sơ tán lên chiến khu và áp dụng phương pháp “học đi đôi với hành”, gắn liền lý thuyết với thực tiễn chiến trường. Từ sau năm 1950, việc đào tạo trở nên hệ thống hơn với các trung tâm được hình thành và chính sách cử lưu học sinh đi học tại các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật cốt cán cho tương lai.

Giáo dục trong vùng tạm chiếm, tại các vùng bị Pháp tạm chiếm, giáo dục trở thành một mặt trận đấu tranh tư tưởng.

Thành tựu nổi bật của giáo dục trong giai đoạn này là: Xây dựng nền tảng tư tưởng mới; xóa nạn mù chữ thành công; duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân; đào tạo thế hệ “Công dân kháng chiến”.

Giáo dục là quốc sách hàng đầu và kỳ tích diệt “giặc dốt” - 2

Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài cùng các đồng chí lãnh đạo Trung ương và thành phố Hà Nội tham quan Ngôi nhà nghệ thuật của Trường PTCS Nguyễn Đình Chiểu. Ảnh: TTXVN

Thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân

Giai đoạn 1975 - 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam. Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: Giai đoạn 1975 - 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến: Tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước. Giai đoạn 1979 - 1986: Triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc.

Thống nhất và mở rộng mạng lưới (1975 - 1978): Ngành Giáo dục đã nhanh chóng tiếp quản và đưa vào hoạt động ổn định gần như toàn bộ hệ thống trường lớp ở miền Nam. Chiến dịch xoá mù chữ và bổ túc văn hoá được phát động rầm rộ trên toàn miền Nam. Đến cuối năm 1978, các tỉnh thành phía Nam đã căn bản hoàn thành xoá mù chữ cho gần 1,4 triệu người, một thành tựu mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Toàn bộ các trường tư thục bị giải thể. Nhiều trường đại học công lập được sáp nhập, tổ chức lại thành các trung tâm đào tạo đa ngành lớn (Đại học Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm...). Hệ thống đào tạo sau đại học (Phó tiến sĩ) cũng được hình thành từ năm 1976.

Triển khai cải cách trong bối cảnh khủng hoảng (1979 - 1986): Cuộc cải cách đã thống nhất thành công hệ thống phổ thông 12 năm trên cả nước. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.

Thành tựu nổi bật của giai đoạn này là:

Thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân: Đây là thành tựu vĩ đại nhất, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc xoá bỏ sự chia cắt về cơ cấu, nội dung và quản lý đã tạo ra một nền tảng pháp lý và tổ chức vững chắc cho sự phát triển giáo dục trong các giai đoạn tiếp theo.

Giữ vững và mở rộng quy mô giáo dục: Bất chấp khủng hoảng, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến đại học vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền, đảm bảo quyền học tập cho hàng chục triệu người dân, thể hiện sự ưu việt của chế độ.

Thành công trong xoá mù chữ và nâng cao dân trí: Phong trào đã góp phần quan trọng nâng cao mặt bằng văn hóa chung, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.

Xây dựng hệ thống đường lối, chính sách giáo dục toàn diện: Giai đoạn này đã hình thành và thể chế hoá một cách hệ thống các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục XHCN, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của ngành trong suốt một thời gian dài.

Chia sẻ

Hạ Thi

Tin cùng chuyên mục

Góp sức vì một Hà Nội văn hiến, văn hóa, văn minh

Góp sức vì một Hà Nội văn hiến, văn hóa, văn minh

Thời gian qua, thành phố Hà Nội rất quan tâm chú trọng xây dựng môi trường văn hóa, phát huy giá trị truyền thống, triển khai hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và các quy tắc ứng xử. Trong kết quả chung đó, có sự góp sức không nhỏ của các cán bộ Ban Công tác Mặt trận và cán bộ, hội viên phụ nữ Thủ đô.

Hội Phụ nữ Hà Nội thúc đẩy bình đẳng giới

Hội Phụ nữ Hà Nội thúc đẩy bình đẳng giới

Với vai trò là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ Thủ đô, những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Hà Nội đã triển khai nhiều mô hình, chương trình hành động, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình và xã hội.

Những niềm tin yêu gửi về Đại hội Phụ nữ

Những niềm tin yêu gửi về Đại hội Phụ nữ

Đại hội Đại biểu Phụ nữ thành phố Hà Nội lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra trong các ngày 20-21/11/2025 là sự kiện chính trị quan trọng, thu hút sự quan tâm của đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ trong và ngoài nước. Nhân dịp này, nhiều cán bộ, hội viên, phụ nữ đã gửi niềm tin yêu, kỳ vọng Đại hội sẽ mở ra một nhiệm kỳ hoạt động mới với nhiều khởi sắc trong phong...

Hà Nội: Thành phố “biết hát”

Hà Nội: Thành phố “biết hát”

Không chỉ đơn thuần du lịch tham quan, nhiều bạn trẻ đã lên kế hoạch “xách vali” để tham dự concert rồi gắn trải nghiệm đó với hành trình khám phá thành phố. Và Hà Nội đang trở thành một điểm đến hấp dẫn hơn bao giờ hết - nơi sự kiện giải trí gặp gỡ du lịch, tạo nên sự giao thoa giữa cảm xúc và khám phá.

Sáng tạo trong những giờ dạy Địa lý

Sáng tạo trong những giờ dạy Địa lý

Cô giáo Lê Thùy Dung, giáo viên môn Địa lý, Trường THCS Việt Nam - Angiêri, (Thanh Xuân, Hà Nội) luôn được nhắc đến như một tấm gương sáng về đổi mới, sáng tạo trong giảng dạy. Cô Dung còn là một trong những gương mặt tiêu biểu của ngành giáo dục Thủ đô, liên tục đạt thành tích xuất sắc trong nhiều năm qua.

Sức sống từ bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Sức sống từ bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số

Trong hành trình xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại, Hà Nội vẫn dành sự quan tâm đặc biệt tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng. Những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây không ngừng được cải thiện. Đáng quý hơn, những điệu múa, làn điệu dân ca, nếp nhà, lễ hội truyền thống… đang dần...

“Dám nghĩ, dám làm” tạo đột phá cho Hà Nội

“Dám nghĩ, dám làm” tạo đột phá cho Hà Nội

Với vị thế là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, đồng thời là đầu tàu về văn hóa, kinh tế, xã hội, Hà Nội đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải tạo ra những bước đột phá mạnh mẽ để tháo gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy phát triển bền vững. Trong hành trình đó, đội ngũ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung được xem là “chìa khóa” mở lối cho...