Những món ăn Hà Nội nằm trong nhóm Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đều là đặc sản nức tiếng, thực khách có khi thưởng thức nhiều lần không chán.
Trong danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, đến hiện tại, Hà Nội đã có 7 món ăn được công nhận. Phở Hà Nội, cốm Mễ Trì, trà sen Quảng An, xôi Phú Thượng, bánh cuốn Thanh Trì, tri thức nấu cỗ Bát Tràng và chả cá Lã Vọng, đều là những món ăn làm nên hồn cốt ẩm thực Hà thành.
Phở Hà Nội
Phở Hà Nội chính thức trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngày 9/8/2024. Đây là món ăn quá quen thuộc, nổi tiếng của người Hà thành từ ngàn đời xưa, cũng là “quốc hồn quốc tuý” đặc trưng của ẩm thực Việt. Phở Hà Nội được nhìn nhận như một hệ giá trị văn hóa, nơi hương vị, kỹ thuật chế biến và cách thưởng thức tạo nên bản sắc riêng.

Phở Hà Nội
Phở Hà Nội được ghi danh không chỉ bởi hương vị đặc trưng mà còn bởi công thức nấu nước dùng, cách chọn nguyên liệu và phong cách thưởng thức riêng của người Hà thành. Bát phở thanh trong, bánh phở mềm, ít gia vị nồng, đề cao vị ngọt tự nhiên từ xương, thịt đúng như nét đặc trưng ẩm thực Hà Nội tinh khiết, thanh đạm, có hương, có sắc. Sự cân bằng ấy giúp phở Hà Nội khác biệt với nhiều địa phương khác.
Chả cá Lã Vọng
Theo một số tài liệu, chả cá Lã Vọng ra đời khoảng năm 1871 tại Hà Nội, do gia tộc họ Đoàn sáng tạo. Ban đầu, đây là món ăn gia truyền của gia đình, dùng cá lăng sông tươi, kết hợp các gia vị như mẻ, riềng, nghệ và mắm tôm, tạo nên hương vị đậm đà vừa vặn ăn kèm rau thơm, lạc rang và bún.

Chả cá Lã Vọng
Đây là món ăn mang đậm phong vị Hà Nội xưa, mới được công nhận là di sản quốc gia vào ngày 19/12/2025. Điều làm nên bản sắc Hà Nội của chả cá Lã Vọng không nằm ở sự cầu kỳ phô diễn, mà ở cách tiết chế: gia vị vừa đủ để dậy hương, kỹ thuật "hai lửa" giúp cá xém vàng bên ngoài nhưng vẫn mềm ẩm bên trong và cách thưởng thức chậm rãi, coi trọng cảm giác hơn hình thức.
Xôi Phú Thượng
Xôi Phú Thượng là kết tinh của tri thức nghề ẩm thực hình thành từ làng Gạ xưa, nay thuộc phường Phú Thượng. Điểm đặc trưng của xôi Phú Thượng nằm ở quy trình đồ xôi công phu, đòi hỏi sự chính xác về thời gian, độ ẩm và hơi nước. Thành phẩm tạo ra khiến thực khách phải trầm trồ về cả hình thức lẫn hương vị.

Xôi Phú Thượng
Nguyên liệu được chuẩn bị kỹ càng từ vo gạo, ngâm nước, đỗ và lạc lựa hạt chắc đều, loại bỏ hạt mốc. Xôi được đồ bằng chõ, sau đó trút ra đảo cho thoát hơi, để nghỉ rồi vẩy nước, đảo đều trước khi đồ lại lần hai vào rạng sáng hôm sau. Chính kỹ thuật "hai lửa" giúp xôi chín đều từ trong ra ngoài, dẻo mềm, bóng hạt.
Bánh cuốn Thanh Trì
Bánh cuốn Thanh Trì truyền thống mang dấu ấn riêng bởi kỹ thuật tráng bánh đòi thao tác thuần thục nhịp tay, nhiệt lửa và độ ẩm chính xác. Bánh được làm từ gạo tẻ ngâm qua đêm, xay thành bột nước mịn, pha loãng vừa tay để khi tráng cho ra lớp bánh mỏng, trong nhẹ, mềm mà không nát, không dính. Cách chế biến này tạo nên dấu ấn đặc trưng riêng, khác với bánh cuốn ở các địa phương khác.

Bánh cuốn Thanh Trì
Bánh ăn nguội, rắc hành phi, không nhân, chấm nước mắm pha vừa vặn, dùng kèm chả quế hoặc chả viên. Bánh thường được làm và bán trong ngày, gắn với những gánh hàng rong, quán nhỏ ven đường hay trong ngõ, trở thành bữa quà sáng quen thuộc của người Hà Nội suốt nhiều thế hệ.
Cốm Mễ Trì
Nghề làm cốm ở làng Mễ Trì hình thành từ lâu đời, gắn với giống nếp truyền thống, được thu hoạch khi còn ngậm sữa, hạt mềm thơm. Quy trình làm cốm đòi hỏi sự chính xác về thời điểm gặt, sự kiên nhẫn trong từng công đoạn rang, giã, sàng, gói. Mỗi công đoạn đều dựa trên kinh nghiệm truyền đời, cảm nhận bằng tay và tai "nghe lửa, nghe chày".

Cốm Mễ Trì
Về hương vị, cốm Mễ Trì có màu xanh non tự nhiên, hạt dẹt, mềm dẻo, thơm mùi lúa mới, vị ngọt dịu lan chậm nơi đầu lưỡi. Cốm không ăn vội, cũng không ăn no, mà thường được dùng như một thức quà thanh nhã, chế biến thành nhiều món ngon như bánh cốm, chè cốm, cốm xào,... gắn với nhịp sống chậm rãi của Hà Nội xưa.
Trà sen Quảng An
Trà sen Quảng An là một trong những biểu tượng tinh tế nhất của thú thưởng trà của người Hà thành. Sen dùng ướp trà phải là sen Bách Diệp ở Quảng An, hái từ tờ mờ sáng khi hoa còn ngậm sương, giữ trọn hương thơm thanh khiết. Trà nền thường là trà mạn Thái Nguyên vị chát dịu, làm nền cho hương sen lan tỏa mà không lấn át.

Trà sen Quảng An
Công đoạn ướp đòi hỏi sự kiên nhẫn và chuẩn xác: tách gạo sen, ướp, sàng, ủ nhiều lượt trong nhiều ngày, hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cảm hương của các nghệ nhân. Chén trà sen vì thế có hương thơm sâu, thanh mà bền, uống vào thanh đọng, lắng tâm. Đây là đặc sản Hà Nội thường được nhiều du khách mua về làm quà.
Cỗ Bát Tràng
Cuối cùng là cỗ Bát Tràng, không phải một mà là nhiều món ăn được coi là hệ thống tri thức ẩm thực gắn chặt với đời sống làng gốm truyền thống. Khác với cỗ khao, cỗ tiệc phô trương ở nhiều vùng, cỗ Bát Tràng được xây dựng theo nguyên tắc hài hòa, chuẩn mực và tiết chế.

Cỗ Bát Tràng
Người nội trợ làng gốm tỉ mỉ chăm chút từng món ăn như canh măng mực, su hào xào mực, nem chim câu, bánh chưng, gà luộc... tạo nên dấu ấn riêng. Mâm cỗ này xưa chỉ dành cho vua chúa, nhất định phải có món canh măng mực - món ăn tiến vua xưa. Dần dần được nấu trong các dịp lễ Tết, khao làng, đãi khách, hiếu hỉ,...
Trong các gia đình khá giả ngày trước, cỗ Tết Hà Nội và Bát Tràng thường là "cỗ bát trân" với 6 bát, 8 đĩa tượng trưng cho sự đủ đầy, sung túc. Mâm cỗ thịnh soạn phải hơn chục người ăn mới hết. Sự tinh tế của cỗ Bát Tràng không nằm ở số lượng món mà ở sự cân bằng giữa béo - thanh - giòn - mềm, giữa món nước và món khô, giúp ăn lâu không ngấy.