Cây này là nguyên liệu được nhiều người thành phố săn tìm bởi hương vị đặc trưng, gắn với món bánh khúc đặc sản, đồng thời được đánh giá cao nhờ những công dụng tốt cho sức khỏe.
Rau khúc là một loài rau dại quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, gắn bó với ký ức đồng ruộng và những mùa bánh khúc thơm nồng. Loại cây này còn được gọi bằng nhiều cái tên dân dã như hoa cúc, cúc tần, cúc vạn thọ, cỏ phấn hương, thanh minh thảo hay cây lá khúc.
Trong tự nhiên, rau khúc thường mọc ở những nơi ẩm ướt như ven ruộng, bờ mương, ven đường, ven bờ rào, quanh bờ hồ. Cây mọc thành từng cụm thấp, cao khoảng 20-30cm, toàn thân phủ một lớp lông trắng mịn như phấn. Lá rau khúc có hình mũi mác, đầu nhọn, mọc so le, dài khoảng 4–6cm; mặt dưới lá có gân giữa nổi rõ.

Rau khúc vốn là loài rau không ai trồng cũng chẳng ai chăm. Sau mỗi vụ lúa, nhất là vào khoảng tháng 10, tháng 11, khi gốc rạ mục dần trên ruộng, rau khúc lại âm thầm mọc lên, chen mình giữa đồng đất.
Trong vườn nhà hay ngoài bãi trồng ngô, khoai, rau khúc cũng xuất hiện nhưng thưa thớt hơn. Với nhiều người, nhất là trẻ nhỏ ở quê, rau khúc từng bị xem như một loài cỏ dại bình thường, cho đến khi lớn lên mới hiểu hết giá trị của chúng.
Rau khúc được chia làm hai loại chính là khúc tẻ và khúc nếp. Khúc nếp thường mập hơn, lá to bản, dày và nhiều lông trắng. Hoa khúc nếp mọc thành từng chùm, không rời rạc như khúc tẻ. Thân khúc nếp nhỏ, có màu bạc nhạt, trong khi thân khúc tẻ xanh mướt và cứng hơn. Theo kinh nghiệm dân gian, rau khúc ngon nhất là hái vào buổi sáng sớm, đặc biệt là sau một trận mưa đêm, khi lá còn non, mềm và thơm.

Mùa rau khúc không quá ngắn, nhưng để tìm được rau ngon lại không hề dễ, nhất là ở thành phố. Ngày nay, nhiều bà nội trợ phải tìm mua rau khúc qua các hội nhóm bán đặc sản quê trên mạng xã hội. Rau khúc chính là nguyên liệu không thể thiếu để làm nên bánh khúc – món bánh dân dã trứ danh của miền Bắc, với lớp vỏ xanh thơm mùi lá khúc, nhân đậu xanh, thịt mỡ béo ngậy.
Hiện trên thị trường, rau khúc nếp có giá khoảng 60.000 đồng/kg, còn rau khúc tẻ dao động quanh mức 40.000 đồng/kg. Nhiều người bán cho biết rau khúc nếp làm bánh thơm và ngon hơn, nhưng rất khó hái, sản lượng ít nên luôn khan hiếm. Ngoài rau tươi, rau khúc còn được sấy khô hoặc cấp đông để bảo quản lâu hơn. Rau khúc sấy khô có giá khoảng 50.000 đồng/lạng, còn bột rau khúc được bán với giá từ 90.000–100.000 đồng cho túi 100g.
Theo quan niệm của Đông y, rau khúc có vị ngọt pha chút đắng nhẹ, tính bình, không chứa độc tố và chủ yếu tác động vào kinh phế. Nhờ đặc tính này, rau khúc được cho là có tác dụng tiêu đờm, khu phong tán hàn, thường được dùng để hỗ trợ điều trị các chứng ho nhiều đờm, hen suyễn, cảm lạnh kèm sốt, đau nhức gân xương…

Dưới góc nhìn của y học hiện đại, rau khúc chứa khoảng 5% flavonoid, 0,05% tinh dầu cùng nhiều dưỡng chất như vitamin nhóm B, vitamin C, caroten, diệp lục, chất nhựa và dầu béo. Trong đó, tinh dầu của rau khúc được đánh giá mang lại nhiều lợi ích nhất định cho sức khỏe.
Một số cách dùng rau khúc theo quan niệm trong y học cổ truyền như:
- Hỗ trợ trị cảm lạnh kèm sốt: Dùng 15–20g toàn cây rau khúc đã phơi khô, đem sắc lấy nước uống trong ngày.
- Giảm ho, nhiều đờm: Sắc 15–20g rau khúc khô cùng 15–20g đường phèn, chia uống hết trong ngày.
- Viêm họng, hen suyễn kèm đờm ứ: Dùng 30g rau khúc khô kết hợp với 10g gừng và 10g hành hoa, sắc nước uống ngày 3 lần.
- Viêm phế quản, suyễn thở do nhiễm lạnh: Rau khúc khô 15g, hoàng giới tử 15g, tiền hồ 9g, vân vụ thảo 9g, thiên trúc tử 12g, tề ni căn 30g; sắc lấy nước uống mỗi ngày, dùng liên tục khoảng 5 ngày.
- Hỗ trợ ổn định huyết áp: Nấu canh từ 30g rau khúc và 20g lá dâu, dùng thường xuyên trong bữa ăn hằng ngày.
- Giảm sưng đau gân cốt, đầu gối: Sắc 30–60g toàn cây rau khúc lấy nước uống trong ngày.
- Thống phong (gout): Dùng lá và cành non rau khúc giã nhuyễn, đắp trực tiếp lên vùng sưng đau.
- Phù thũng do tỳ hư (tiêu hóa kém): Sắc 60g toàn cây rau khúc khô lấy nước uống trong ngày.
- Khí hư bạch đới: Rau khúc 15g phối hợp với cỏ seo gà 15g, cỏ bắc đèn 15g và thổ ngưu tất 12g, sắc nước uống trong ngày.
Lưu ý, các bài thuốc trên chỉ nên áp dụng trong thời gian ngắn. Trường hợp triệu chứng không thuyên giảm, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được kiểm tra và tư vấn kịp thời.