Một bài thơ giản dị nhưng sâu sắc, lắng đọng về người lính đảo.
Anh là lính giữa trùng khơi,
Ngày đêm giữ đảo, dáng ngời gió sương.
Mắt nhìn ra phía đại dương,
Tai nghe tiếng sóng – lòng thương đất liền.
Anh từng mơ đến giảng đường,
Mơ làm bác sĩ, kỹ sư giúp đời.
Cũng yêu, cũng giận, cũng hờn,
Cũng mong cha mẹ bình an sớm chiều.
Nhưng anh chọn bước đường yêu –
Là yêu Tổ quốc, làm điều thiêng liêng.
Gác riêng tư, gác tương lai,
Giữ cho bờ cõi ngày mai yên bình.
Trường Sa sóng nước lung linh,
Đón chân anh bước nghĩa tình dựng xây.
Tay anh chăm bón vườn cây,
Nuôi gà, bắt cá, đắp đầy ấm no.
Giúp dân những việc nhỏ to,
Mái nhà chống gió, chiếc lều chống mưa.
Lúc rảnh, anh cũng hát ca,
Tình ca chan chứa những lời quê hương.
Anh đâu phải tượng giữa trời,
Mà là người lính – ân cần, thân thương.
Sống vui giữa đảo xa xăm,
Gian nan không nản, vững vàng, sắt son.
Từ Thủ đô đến Trường Sa,
Cảm ơn người lính chói loà niềm tin.
Nhờ anh, biển đảo vững - yên,
Cờ sao Tổ quốc thắm mầu tương lai.
Ngày 11/5/2025.
Trần Duyên Hải (Chủ tịch UB MTTQ Việt Nam Nam huyện Ứng Hoà, TP Hà Nội).
Ảnh minh họa
Bài thơ Yêu người lính đảo của Trần Duyên Hải thực sự đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc ngay từ nhan đề. Yêu đấy nhưng không phải là tình yêu lứa đôi đơn thuần mà là lòng yêu thương, trân trọng dành cho những người lính đảo.
Câu thơ đầu tiên là lời giới thiệu rất chân thành, mộc mạc: “Anh là lính giữa trùng khơi”. Là lời của tác giả hay cũng chính là lời tự bạch của người lính. Sau lời “ra mắt”, người lính bắt đầu xuất hiện. Nhưng sự xuất hiện của người lính trong bài thơ cũng rất đặc biệt. Ngoài cụm từ “dáng ngời gió sương” tác giả không dụng công tái hiện vóc dáng người lính mà đi sâu vào thể hiện tính cách, việc làm, hành động của các anh: “Ngày đêm canh giữ biển trời” với ánh mắt bao quát khắp đại dương mênh mông, với tâm thế sẵn sàng chiến đấu.
Những người lính đã từng có những ước mơ tươi đẹp với cuộc sống bình dị nơi đất liền: “Anh từng mơ đến giảng đường/ Mơ làm bác sĩ, bình yên giúp đời” và “mong cha mẹ bình yên sớm chiều”. Nhưng có lẽ tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước, với biển đảo thương yêu đã thôi thúc họ “gác riêng tư”, gác lại những giấc mơ giảng đường, gác lại cả mơ ước với cuộc sống bình dị nơi quê nhà, các anh lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, để “giữ cho bờ cõi ngày mai yên bình”.
Đặt chân lên “Trường Sa sóng nước lung linh”, mang theo “lòng thương đất liền” để thương hơn những người dân sống trên biển đảo quê mình. Từ lý tưởng tươi đẹp ban đầu, đã biến thành hành động. Khổ thơ bốn, năm, sáu cho thấy sự gắn bó quân dân giữa những người lính đảo với người dân trên đảo. Các anh sẵn sàng:
“Giúp dân những việc nhỏ to
Mái nhà chống gió, chiếc lều chống mưa”.
Giữa bốn bề mênh mông sóng nước, giữa những cơn gió giật, sóng dồn, người dân sẽ cảm thấy vững tin hơn, ấm áp hơn khi có các anh bên cạnh đồng hành, giúp đỡ, bảo vệ.
Không chỉ chắc tay súng bảo vệ biển đảo quê hương mà những người lính đảo còn hăng hái tham gia lao động sản xuất:
“Tay anh chăm sóc vườn cây
Nuôi gà, bắt cá, đắp đầy ấm no”.
Đọc hai câu thơ, tôi mường tượng hình ảnh người lính với nước da sạm nắng, nụ cười tươi rói đang tưới nước bắt sâu cho mấy luống rau xanh tốt. Đó là những con người yêu nước, yêu đời thiết tha: “Lúc rảnh anh cũng hát ca/ Tình ca chan chứa những lời quê hương”.
Chúng ta vẫn biết cuộc sống ở biển đảo xa đất liền, khó khăn, thiếu thốn trăm bề nhưng với tình yêu nước những người lính đảo vẫn “Sống vui giữa đảo xa xăm/ Gian nan không nản, vững vàng, sắt son”. Đó là một lời khẳng định, một lời thề sắt son với biển đảo quê hương.
Bằng ngôn từ giản dị, mộc mạc; giọng điệu chân thành, gần gũi, Trần Duyên Hải thực sự đã thực sự làm nổi bật hình ảnh người lính đảo với ý chí kiên cường, tâm hồn yêu đời và tình yêu nước thiết tha.
Khổ thơ cuối, tác giả trực tiếp nói lên lời tri ân của mình với những người lính đảo: “Cảm ơn người lính chói lòa niềm tin”.