Có một loại bánh đặc sản của người Tày ở các tỉnh vùng núi như Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn rất được lòng thực khách.
Vùng núi cao nổi tiếng với nhiều loại đặc sản đậm chất núi rừng độc lạ như cơm lam, thịt trâu gác bếp, xôi nếp cẩm,... trong đó có một món bánh cực kỳ đặc biệt từ tên gọi đến cách chế biến - khẩu sli. Món bánh này nhìn không khác gì bỏng gạo được đóng thành khuôn ở miền xuôi, nhưng khi ăn sẽ có hương vị khác hẳn, đặc trưng ẩm thực của người dân tộc Tày.
Món bánh khẩu sli đặc biệt
Khẩu sli tiếng địa phương có nghĩa là bánh gạo nếp nổ, cũng có thể hiểu là bánh bỏng. Từ "khẩu" trong tiếng Tày có nghĩa là "miệng", còn "sli" là tên gọi chung của loại bánh này, do đó khẩu sli có thể hiểu là "bánh ăn miệng". Tên gọi này không chỉ đơn giản mô tả hình thức của món bánh mà còn thể hiện sự gần gũi, giản dị trong văn hóa ẩm thực của người dân nơi đây.
Trước đây, người dân địa phương chỉ làm bánh khẩu sli trong những dịp lễ Tết, hội hè. Nhưng với những hương vị đặc trưng dần dần đã được bà con sản xuất bánh đại trà và sáng tạo thêm mùi vị mới, hay quy cách đóng gói đa dạng để phù hợp với du khách có thể làm quà biếu, ăn vặt hàng ngày hoặc trong những lễ hội, đám tiệc.
Bánh khẩu sli trông giống bỏng gạo
Bánh khẩu sli được chế biến theo công thức cổ truyền, từ các nguyên liệu sẵn có của địa phương như gạo nếp, lạc, đường mật và được sản xuất theo phương pháp thủ công gia truyền với các công đoạn khác nhau, như: đồ xôi, phơi, giã, sấy, sàng, rang.... Quy trình nghe có vẻ đơn giản nhưng lại rất công phu, từ khâu chọn nguyên liệu vì đây là loại bánh đòi hỏi người làm phải chịu khó, tỉ mỉ, tinh tế mới có thể tạo ra bánh có mùi vị rất đặc trưng, thơm, ngon và bổ dưỡng.
Khi chọn được gạo ngon rồi phải sàng lấy hạt nguyên, hạt vỡ loại bỏ hết, bởi vì hạt gạo nguyên khi đồ lên, phơi, giã thì càng bẹp, khi khô rang nó càng phồng, còn hạt vỡ giã không được bẹp, khi rang lên độ phồng không đẹp, không tròn hạt gạo.
Cầu kỳ từ khâu chọn gạo
Bắt tay vào làm bánh khẩu sli, việc đầu tiên là ngâm gạo nếp khoảng 8 giờ, sau đó đồ chín thành xôi; để xôi nguội, trộn với bột sắn, bột gạo hay bột ngô để hạt xôi tơi ra, không dính vào nhau. Công đoạn này tưởng đơn giản nhưng nếu vò xôi không kỹ thì hạt xôi sẽ dính vào nhau, bánh không đảm bảo chất lượng và thẩm mỹ.
Tiếp đó, đem xôi vò xong đi phơi nắng cho se lại rồi giã cho hạt xôi dẹt lại; sau đó đem xôi đã giã rang trên chảo lửa, đảo đều tay cho những hạt xôi nở đều, giòn bung màu hơi vàng là có thể xúc ra.
Sau đó đến khâu thắng đường, đường làm bánh phải là đường phên; đem đường vào chảo đun lên cho đường tan ra, khi đường sánh đặc có màu vàng mật thì nhanh tay đổ bỏng gạo vào rồi đảo đều tay để đường và bỏng quện đều nhau.
Đường cũng cần được lựa chọn kỹ
Hạt bỏng được thứ mật đường bám vào có một màu vàng óng đẹp mắt. Sau đó người làm phải nhanh tay đổ hỗn hợp bỏng trộn đường ra khuôn gỗ vuông rồi dàn đều, dùng chai thủy tinh cán qua cán lại, nén cho thật chặt để tạo độ kết dính.
Đổ lên trên lớp bánh một lớp lạc đã rang và thêm một thứ nguyên liệu đặc biệt không thể thiếu đó là hạt ngà hooc rang thơm. Những hạt lạc kèm hạt ngà hooc (có mùi thơm ăn như một loại hạt vừng rất giàu dinh dưỡng) sẽ được mật đường dính chặt lại, tạo một tầng màu nâu đỏ phủ lên trên trông rất đẹp mắt.
Sau đó người làm dùng dao để cắt bánh theo kích cỡ ở khuôn bánh, mỗi phong to bằng viên gạch nhưng khi ăn có thể bẻ thành từng miếng nhỏ để ăn. Khi bánh nguội thì gói vào túi nilon buộc kín để bảo quản, bánh có thể sử dụng được trong vài tháng.
Khẩu sli được đóng theo khuôn
Bạn có thể tìm mua loại bánh đặc biệt này ở bất cứ đâu, nhưng ngon nhất vẫn là tìm đến đúng các địa chỉ sản xuất lâu đời ở các tỉnh miền núi Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Bánh khẩu sli được bán với giá từ 20.000 - 25.000 đồng/phong, loại đóng hộp giá 35.000 đồng/hộp.
Với hương vị đặc trưng và hình thức giản dị, món bánh này đã trở thành một biểu tượng của sự mến khách, đoàn kết và tình yêu thương trong cộng đồng. Nếu có dịp ghé thăm thăm các tỉnh miền núi phía Bắc, đừng quên thưởng thức món bánh truyền thống này để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực vùng cao, cũng như tìm hiểu thêm về đời sống và con người nơi đây.