Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ra bởi virus, ảnh hưởng lớn đến chức năng gan, hậu quả có thể gây suy gan cấp, viêm gan mạn, xơ gan, ung thư gan và có thể dẫn đến tử vong. Giống như virus HIV, bệnh lây qua đường máu, qua quan hệ tình dục và từ mẹ truyền sang con.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ viêm gan B cao nhất trên thế giới. Uớc tính có khoảng 10 triệu người bị viêm gan B, trong đó đường lây chủ yếu vẫn là đường lây từ mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai. Bệnh viêm gan B hiện nay đã có thuốc điều trị và vắc-xin phòng bệnh. Do đó, việc sàng lọc, phát hiện và quản lý người phụ nữ bị viêm gan B thời kỳ trước, trong quá trình mang thai, khi sinh và sau khi sinh... là rất quan trọng, cấp thiết, để đảm bảo trẻ sinh ra không bị nhiễm virus viêm gan B.
Tại BV Bạch Mai, theo PGS.TS Đỗ Duy Cường - Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai: Trung bình mỗi năm Trung tâm khám, điều trị cho hàng trăm phụ nữ mang thai bị viêm gan B. Mặc dù Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn Quốc gia về Chẩn đoán điều trị viêm gan virus B theo QĐ 3310 ban hành 29/7/2019, trong đó có quản lý điều trị viêm gan B ở phụ nữ có thai cũng như xây dựng “Kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2018-2030”.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, nhiều phụ nữ khi mang thai không biết mình bị viêm gan B, không được theo dõi điều trị trong quá trình mang thai. Nếu bà mẹ mang thai có nhiễm virus viêm gan B cấp tính làm tăng nguy cơ sinh non, trẻ sinh ra nhẹ cân, vàng da. Bà mẹ mang thai có bệnh viêm gan B mạn tính thì tăng nguy cơ tiểu đường thai nghén và băng huyết khi sinh. Ngoài ra, viêm gan virus cấp và mạn tính trên bà mẹ mang thai có HBeAg dương tính nếu không được quản lý và điều trị kịp thời thì nguy cơ 90% có thể truyền virus viêm gan B sang con. Đứa trẻ từ khi sinh ra đã bị nhiễm virus viêm gan B thì có thể mang virus suốt đời, để lại hậu quả về bệnh tật và gánh nặng tâm lý rất nặng nề.
Bởi vậy, PHS.TS Đỗ Duy Cường khẳng định việc dự phòng lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con là rất quan trọng. Hiện nay, các biện pháp đưa ra dựa trên cơ chế lây truyền từ 3 giai đoạn (khi mang thai, trong khi sinh và giai đoạn cho con bú).
Đối với giai đoạn khi mang thai, bà mẹ cần phải uống kháng virus trong 3 tháng cuối của thai kì, bắt đầu từ tuần lễ thứ 24 trở đi, thuốc được lựa chọn là Tenofovir Disoproxil Furamate (TDF) 300mg, uống mỗi ngày 1 viên và thuốc này được uống duy trì tới 3 tháng sau sinh. Cần kiểm tra chức năng thận của bà mẹ, tuy nhiên, thuốc khá là an toàn và không gây ảnh hưởng đến cả mẹ và con, kể cả khi cho con bú. Khi sinh thì bà mẹ vẫn tiếp tục được uống thuốc, trong quá trình sinh có thể đẻ thường hoặc mổ. Chú ý phải tiêm kháng huyết thanh viêm gan B (HBIG) cho trẻ ngay trong 12 - 24h đầu sau sinh, và kết hợp tiêm ngay vắc-xin viêm gan B mũi 1.
Ngoài ra, tiêm kháng huyết thanh (HBIG) bắt buộc cho trẻ sơ sinh ở những trường hợp mẹ mang thai có viêm gan B. Tiêm càng sớm càng tốt (tốt nhất trong 12h đầu), nếu để muộn hơn thì tối đa là 5 ngày. Liều: 30 - 100 UI/kg cân nặng, tiêm bắp sâu hoặc dưới da. Cần tiêm đủ 3 mũi vắc-xin phòng viêm gan B cho trẻ. Chương trình tiêm chủng vắc-xin viêm gan B toàn quốc đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc viêm gan B trong cộng đồng. Các vắc-xin hiện nay an toàn và có hiệu quả phòng bệnh.
Lịch tiêm như sau: Tiêm mũi 1 (mũi sơ sinh) càng sớm càng tốt, tốt nhất là 24h đầu sau sinh, nếu muộn hơn thì tối đa là 7 ngày. Tiêm bắp, vị trí 1/3 giữa ngoài đùi, vị trí tiêm cách xa vị trí tiêm HIBG. Mũi 2, 3 tiêm khi trẻ được 2, 3 tháng. Mũi 4 (nhắc lại) tiêm khi trẻ đủ 12 tháng. Khi trẻ được 15-18 tháng: Xét nghiệm HBsAg (xét nghiệm chẩn đoán sớm về khả năng mắc virus viêm gan B) và anti-HBs (xem đã có khả năng miễn dịch đối với bệnh viêm gan B hay chưa).